135 Những trường hợp bị tước quyền hưởng di sản thừa kế theo Bộ Luật Dân Sự 2015 mới nhất

Thừa kế di sản là hưởng di sản do người khác để lại và người thừa kế là cá nhân phải là đối tượng được hưởng quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Người bị pháp luật xác định không còn xứng đáng được hưởng di sản gọi là người “bị tước quyền hưởng di sản”.

Trong trường hợp quyền hưởng di sản chủ yếu phụ thuộc vào quy định của pháp luật thì di chúc của người chết chỉ có vai trò “khôi phục” quyền hưởng di sản (người bị tước quyền hưởng di sản) là người người để lại di sản quyết định tiếp tục hưởng di sản). Các trường hợp không được hưởng di sản cũng được quy định rõ tại . Điều 7 Pháp lệnh Di sản, BLDS 1995, Điều 643 BLDS 2005 và nay được quy định tại Điều 621 BLDS 2015:

Thừa kế vốn dĩ là vấn đề gây nhiều “nhức nhối” trong xã hội (ảnh minh họa)

1. Những người sau đây không có quyền thừa kế:

a) Người bị kết án về tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc tội ngược đãi, hành hạ người đào ngũ, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc di sản;

c) Người đã bị kết án về tội cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng;

d) Người có hành vi gian dối, cưỡng ép, cản trở việc chứng thực di chúc; giả mạo di chúc, sửa đổi di chúc, hủy bỏ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người thừa kế.

2. Những người nói tại khoản 1 điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại đã biết về việc làm của họ mà theo di chúc vẫn cho họ hưởng di sản.

Các trường hợp tước quyền thừa kế do xâm phạm di sản

1. Xâm phạm quyền nhân thân

Điều này được quy định tại a, khoản 1, điều 621 BLDS 2015:

a) Người bị kết án về tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc tội ngược đãi, hành hạ người đào ngũ, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

Đây là những trường hợp người thừa kế có hành vi nghiêm trọng đối với người để lại di sản.

Ví dụ : Chồng giết vợ vì ngoại tình. Thông thường, khi người phụ nữ chết thì người đàn ông được hưởng thừa kế, nhưng vì người đàn ông đã cố ý xâm phạm tính mạng của người phụ nữ nên pháp luật không cho phép người đàn ông được hưởng di sản của người phụ nữ.

Để được coi là người không có quyền theo Điều 621 BLDS 2015 thì chúng ta phải đáp ứng đủ 2 điều kiện:

  • điều kiện nội dung : Đương sự đã “cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc ngược đãi nghiêm trọng người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”. Ở đây chúng ta phải chứng minh đương sự có hành vi xâm phạm đó hay không hơn nữa chúng ta phải chứng minh hành vi của đương sự là “cố ý” nên nếu có hành vi xâm phạm đó thì những người “vô ý” không bị tước quyền hưởng di sản . Tương tự như vậy, “trong trường hợp người thừa kế chỉ bị kết án về tội vô ý làm chết người, để lại di sản thì người đó vẫn được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật”.
  • Điều khoản chính thức : hành vi cố ý trên phải bị “lên án”. Với quy định này, một người không bị “kết án” thì không thuộc trường hợp “không được hưởng di sản”.

2. Vi phạm quyền được nhận nuôi dưỡng

Những người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau mà không thực hiện thì còn có thể bị tước quyền hưởng di sản. Theo điểm b, khoản 1, điều 621, BLDS 2015:

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ lập di sản

Với quy định trên thì việc tước quyền hưởng di sản thừa kế của một người bình thường không phụ thuộc vào việc người này đã bị kết án hay chưa. Tuy nhiên, để áp dụng việc tước quyền hưởng di sản thì người thừa kế phải thuộc trường hợp “có nghĩa vụ chăm sóc di sản” và phải “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ này”.

thua ke 2

Ví dụ: Một ông già có con, nhưng các con của ông lại bỏ mặc ông không được chăm sóc, trong khi ông già cần được quan tâm, chăm sóc. Trong trường hợp này, các con của chị có nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng chị không cấp dưỡng nên đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ này và có thể bị tước quyền hưởng di sản.

3. Giả mạo di chúc

Cá nhân tự do quyết định việc lập di chúc hay không, khi lập di chúc cá nhân có quyền tự do xác định người được hưởng di sản cũng như phần di sản cụ thể của mỗi người. Theo điểm d khoản 1 điều 621 BLDS 2015 thì không được hưởng thừa kế:

c%C3%B4ng ch%E1%BB%A9ng

d) Người có hành vi gian dối, cưỡng ép, cản trở việc chứng thực di chúc; giả mạo di chúc, sửa đổi di chúc, hủy bỏ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý muốn của người thừa kế.

Hỏi: Vậy nếu biết người khác đã lập di chúc thì có thể suy ra là họ đã tham gia lập di chúc không?

Trả lời: Việc biết người khác giả mạo thì không thể suy ra người này cũng tham gia vào việc làm giả di chúc, nhưng nếu người đó biết mà không khai báo mà có hành vi cổ vũ cho việc làm giả di chúc thì người đó cũng bị xử phạt.

4. Trái với ý muốn của người để lại di sản:

Để tước quyền của người giả mạo di chúc, chúng ta phải xác định được người giả mạo di chúc.”trái với ý muốn của người để lại di sản“. Tức là, nếu có sự giả mạo di chúc nhưng không trái với ý muốn của người chết thì người giả mạo không bị tước quyền hưởng di sản.

Hỏi: Vậy làm thế nào để chứng minh di chúc giả mạo trái ngược với di chúc để lại di sản?

Trả lời: Chúng ta cần biết nội dung của di chúc giả mạo và nội dung di chúc của người để lại di sản, sau đó so sánh hai yếu tố này để có câu trả lời. Đối với nội dung di chúc giả mạo thì rất dễ phát hiện. Nhưng nếu không có chứng cứ chứng minh ý chí của người để lại di sản thừa kế thì chúng tôi phải làm thế nào? Khi người chết trước khi chết không thể hiện rõ ý chí mà có ý định “ngầm” chuyển di sản của mình cho người khác theo quy định của pháp luật. Do đó, nếu việc giả mạo di chúc vi phạm các quy định này thì có thể suy ra là trái với ý chí của người để lại di sản.

5. Người thừa hưởng di chúc giả mạo:

Theo quy định của Bộ luật dân sự: người không được hưởng di sản là “người (…) giả mạo, sửa đổi di chúc, hủy hoặc che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. “. Quy định này có thể hiểu người được hưởng di sản theo di chúc giả mạo và người thực hiện hành vi lập di chúc giả mạo: 1.

Hỏi: Vậy nếu người lập di chúc không được hưởng di sản của người lập di chúc và người hưởng di sản của người lập di chúc là người khác thì pháp luật xử lý như thế nào?

Trả lời: Trong trường hợp này, “người kia” thường sẽ là người thân trong gia đình hoặc người có mối quan hệ thân thiết, gần gũi với người làm giả nên người làm giả không phải là người được lợi. Phần thừa kế mà “người thân” được hưởng không khác nhau nhiều nên “người thân” trong di chúc giả mạo không có quyền hưởng di sản. Đây là vấn đề pháp luật hiện hành chưa đề cập, vì vậy chúng ta nên mở rộng quy định này áp dụng cả với hành vi làm giả để cho phép “người thân” của người làm giả được hưởng di sản.

thegioiluat